NHV SUU TAM

 

 

PHẦN 1

(Năm 30 đến 100 Tây Lịch)
CƠ-ĐỐC G IÁO PHÔI THAI

Khi bóng tối bao phủ mịt mù trên thành Giê-ru-sa-lem chiều thứ sáu ấy, sau khi Chúa Giê-xu đã chịu hình trên đồi sọ, thì sứ mạng của Ngài dường như đã kết thúc trong thất bại hoàn toàn. Những nhà cầm quyền thời bấy giờ nghĩ rằng đem xử tử Ngài như một tội nhân tầm thường là đủ phá tan uy tín của phong trào do Ngài khởi xướng và chấm dứt được ngay tình trạng sôi động trong dân chúng. Đang khi thi thể Ngài được đặt suốt ngày Sa Bát trong ngôi mộ vốn dành cho người khác thì những môn đồ Ngài tê bại vì xúc động và th ất vọng, thương khóc Ngài, người mà họ đã ‘trông mong chắc sẽ cứu lấy dân Y-sơ-ra-ên’ (LuLc 24:21). Khi họ nhớ lại cơn cuồng nộ của đám dân hò hét ‘Hãy đóng đinh nó’, ‘ Hãy đóng đinh nó’, các bằng hữu cũng như các người đã theo Ngài vẫn còn run sợ. Nhiều ngày sau có lẽ họ sẽ chỉ dám gặp nhau trong những căn phòng đóng cửa cài then thật kỹ.
Dường như mọi sự kinh hoàng diễn ra đã xóa tan tất cả công cuộc phục vụ sáng lòa của Chúa Giê-xu. Ngài đã chữa lành bệnh cho bao người và làm sống lại niềm hy vọng trong lòng hàng trăm người khác. Lúc đó, chưa ai viết lên một dòng của Tân Ước, họa may có người nào đó nguệch ngoạc ghi vội một vài lời Ngài đã phán phòng hờ sẽ quên chăng. Đêm thứ sáu ấy và trong suốt ngày Sa Bát tiếp theo, phần đông các nhân vật cầm quyền tại Y-sơ-ra-ên thật đã thỏa lòng vì đã làm câm miệng được một tiên tri vô danh xuất thân từ xứ Ga-li-lê, một tiên tri đã gây ra biết bao xáo trộn. Cả các bạn của Ngài cũng phải thú nhận là bao nhiêu hy vọng của họ đã tiêu tan hết. Nhưng cũng giống như kinh nghiệm của Ysơraên trong dĩ văng, từ thất bại lại xuất hiện ra mầm thắng lợi, vì ‘PHÚC ÂM’ mà Chúa Giê-xu đã rao truyền ra chỉ trong vòng không đến ba trăm năm là đủ trở thành một nguồn động lực tâm linh cho Đế Quốc La Mã và rồi cho cả nền văn minh Tây phương nữa.
Sự thể đã xảy ra như thế nào? Chúng ta có thể thấy lời giải đáp ở trong bốn sách Phúc Âm và ở trong sách Công Vụ các Sứ Đồ, cuốn này là cuốn sách lịch sử duy nhất ghi lại thời kỳ các Sứ Đồ viết chính trong lúc đương thời. Theo bốn sách Phúc Âm thì niềm tin Cơ-Đốc chớm nở vào ngày thứ nhất trong tuần lễ, ngày mà từ đó về sau hết thảy mọi người Cơ-Đốc đều kể là ngày Thánh. Ngày đó những người đàn bà theo Chúa Giê-xu mang các loại thuốc thơm và dầu xức đến mộ Ngài để sửa soạn thi thể Ngài trước khi chôn.
Những việc xảy ra sau đó là một sự huyền nhiệm vượt qua sự giải thích bằng lý luận, tuy nhiên những việc đó cũng đã khiến những kẻ theo Chúa Giê-xu tin quyết rằng sự chết của Ngài không phải là một kết thúc mà trái lại, chính là một khởi đầu. Thoạt tiên những môn đồ nghe tin các bà kia nói lại thì họ không hiểu nổi ý nghĩa và họ coi những lời kể lại về ngôi mộ trống và câu nói của thiên sứ như là một ‘chuyện hoang đường’. Dầu vậy Phi-e-rơ và Giăng có chạy thẳng đến ngôi mộ đục trong đá núi để được tận mắt chứng kiến và họ thấy ngôi mộ quả thật trống.
Ngược lại trong đám môn đồ của Chúa ai là người đầu tiên tin rằng Chúa của họ đã sống lại từ kẻ chết, điều này không được rõ lắm. Có thể là ‘Môn đồ mà Ngài yêu’ (GiGa 20:8) cũg có thể là Ma-ri Ma-đơ-len (20:11-18) hoặc Phi-e-rơ (ICo1Cr 15:5). Rồi không bao lâu sau đó, kể cả Thô-ma, là một ngưòi hoài nghi, tất cả môn đồ đều đồng lòng tin rằng Chúa đã sống lại vì hết thảy đều đã nhìn thấy Ngài. Bởi có sự tin quyết ấy nên họ chẳng hề bị xao xuyến về những tin đồn đại mà nhà cầm quyền tại Giê-ru-sa-lem cho loan truyền ra để giải thích về ngôi mộ trống, một sự kiện có thể gây rất nhiều rắc rối. Một tin đồn nói rằng các môn đồ đã ăn trộm xác Chúa đem đi, tin ấy không thể đứng vững là vì có thể nào chính những kẻ tổ chức một sự lừa dối lại có thể mắc lừa bởi sự lừa dối ấy?
Đối với các môn đồ, sự sống lại của Chúa Giê-xu dường như đã cất khỏi mặt họ một cái màn che và họ bắt đầu hiểu những việc trong đó họ đã dự phần. Sự sống lại thực sự của Chúa đã trở thành cao điểm trong lời tuyên bố vào ngày lễ Ngũ Tuần ‘Đức Chúa Giê-xu này, Đức Chúa Trời đã khiến sống lại, và chúng ta thảy đều làm chứng về sự đó’ (Cong Cv 2:32). Niềm tin này không phai nhạt đi, mà càng ngày càng tăng, vì Phaolô sau này lại trân trọng viết trong thơ ICo1Cr 15:14. ‘Nếu Đấng Christ chẳng đã sống lại thì sự giảng dạy của chúng tôi ra luống công, và đức tin anh em cũng vô ích’. Niềm tin về sự sống lại của Chúa Christ đánh dấu bước khởi đầu lịch sử của Cơ-Đốc Giáo. Học giả Charles H. Dodd đã xác định đó ‘không phải là một niềm tin trong Hội Thánh, mà chính Hội Thánh đã phát triển quanh niềm tin ấy’.
Sách Tân Ước ghi lại rằng sau khi Chúa Christ Phục Sinh, Ngài ở lại với nhóm môn đồ ít ỏi của Ngài, và dạy cho họ hiểu những phương diện sâu sắc hơn trong niềm tin của họ và mô tả cho họ thấy trước được hình thái phát triển tương lai của Cơ-Đốc Giáo. Có người nói :’Cơ-Đốc Giáo đã được sinh thành với quyển Kinh Thánh trong nôi’. Trong thời gian Ngài phục vụ, Chúa Giê-xu đã thường lấy lời Đức Chúa Trời làm nền móng cho sự dạy dỗ của Ngài. Ngài trích dẫn những lời ấy và Ngài giải thích. Theo Phúc Am Lu-ca, Chúa Christ sau khi Phục Sinh đã giải thích lại Kinh Thánh cho môn đồ qua ánh sáng của sự Phục Sinh của Ngài và Ngài ‘mở trí cho môn đồ được hiểu Kinh Thánh’ (LuLc 24:45). Những lời giải thích của Ngài thật bao quát vì ‘Ngài bắt đầu từ Môi se, rồi kế đến mới đến các đấng tiên tri mà cắt nghĩa cho hai người đó những lời chỉ về Ngài trong câu Kinh Thánh’ (24:27)
Những sách cổ xưa được tổ tiên lưu lại nay bao hàm thêm ý nghĩa mới vì những môn đồ đưọc thấy trong đó nhiều ám chỉ về đời sống, về sự Phục Sinh của Chúa Christ và họ nhận ra rằng những lời hứa của Kinh Thánh trong quá khứ đã thể hiện trọn vẹn trong Ngài. Chính Ngài cũng đã phán rõ ràng về Kinh Thánh : ‘Ta đến, không phải để phá, song để làm cho trọn’. (Mat Mt 5:17). Các môn đồ hiểu rằng sự Phục Sinh của Chúa Christ là dấu hiệu nói lên sự trị vì của Đức Chúa Trời trên mặt đất, điều họ hằng trông đợi, thật đã bắt đầu. Bây giờ họ biết rằng Giê-xu mà họ đã lẽo đẽo theo tại các miền Ga-li-lê và Giu-đê, chính Ngài là Chúa và là Đấng Christ. Cách Ngài giảng giải những vấn đề căn bản trong Kinh Thánh sau này trở thành nền móng cho những bài giảng của các Sứ Đồ và những thư tín của Phao-lô, đồng thời cũng là đề tài của các sách Phúc Âm nữa.
Tiếng ca ngợi của lời làm chứng từ những người rao truyền những việc Chúa Giê-xu đã làm, bổ túc thêm vào những lời chứng trong Cựu Ước, đó là tiếng của những kẻ theo Ngài, những kẻ đã được nghe Ngài phán: ‘Các ngươi sẽ làm chứng về ta’ (Cong Cv 1:8). Thật vậy họ đã trở thành những chứng nhân về tất cả những ‘điều mắt chúng tôi đã thấy, điều chúng tôi đã ngắm và tay chúng tôi đã sờ, về lời sự sống’ (IGi1Ga 1:1).
Để lấp chỗ trống do sự bội phản của Giu-đa các môn đồ đã chọn Ma-thi-a (Matthias) làm Sứ Đồ thứ 12. Trong mắt họ, họ đã kể Ma-thi-a xứng đáng chức vụ Sứ Đồ bởi vì Ma-thi-a đã làm chứng nhân về sự Phục Sinh của Chúa và ‘đã theo cùng chúng ta trọn lúc Đức Chúa Giê-xu đi lại giữa chúng ta, từ khi Giăng làm phép Báp Têm cho đến ngày Ngài được cất lên khỏi giữa chúng ta’. (Cong Cv 1:21-22). Nói tóm lại, Ma-thi-a có thể làm chứng vì chính ông đã chứng kiến. Dù sau khi cả bốn sách Phúc Âm đã được viết xong, thì người ta vẫn thích nghe lời làm chứng của những kẻ đã tận mắt chứng kiến Chúa Giê-xu, hay là những kẻ đã từng theo sát họ, hơn bất cứ những gì chép trong một sách. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ hai, Giám Mục Papias ở Hierapolis, hồi tưởng lại thời niên thiếu của mình khi những kẻ thường được theo chân các môn đồ đầu tiên hãy còn sống, sống viết như sau :
‘Nếu tôi gặp người nào đã từng theo các bậc trưởng lão, tôi thường hối tiếc về các lời mà các bậc trưởng lão ấy nói ra. Anh rê nói gì, hoặc Phi-e-rơ, hay bất cứ môn đồ nào của Chúa… Vì tôi nghĩ rằng đọc sách thì ích lợi sao bằng được nghe những lời phát từ một tiếng nói sống động và hằng nhắc nhở ‘.
Không bao lâu sau ngày Chúa Phục Sinh, đám người đang trông ngóng Ngài nhận được mệnh lệnh sau chót của Ngài. ‘Vậy hãy đi dạy dỗ muôn dân’ (Mat Mt 28:19). Đối với nhóm người Do Thái này, đây quả là một mệnh lệnh lạ thường, vì Do Thái Giáo chưa từng bao giờ là tôn giáo phái giáo sĩ đi các nưóc mà chỉ là một sở hữu quý giá của một dân tộc riêng biệt. Do Thái Giáo là niềm tin riêng của dòng dõi Ap-ra-ham mà thôi.
Khi Chúa Christ ra lệnh: ‘Này ta thường ở cùng với các ngươi luôn cho đến tận thế’, chắc chắn kèm theo đó là một bảo đảm có sự phù trợ từ trời, và cuối cùng, Ngài còn hứa ‘khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi thì các ngươi sẽ nhận được quyền phép’ (Cong Cv 1:8). Lời hứa này sẽ được thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần trong một phòng cao tại Giê-ru-sa-lem khi những người theo Chúa Giê-xu từng trải sự được ban cho Đức Thánh Linh. Họ nghe thấy tiếng gió mạnh thổi ào ào, rồi lại nhìn thấy những ngọn lửa, và họ đã nói ‘các thứ tiếng khác’. Khi họ được nói những ‘tiếng khác’ ấy, họ thầm hiểu rằng sứ điệp của Chúa Christ cần phải được rao truyền đến mọi giống dân. Đối với những môn đồ nhóm họp ngày đó, ngày Lễ Ngũ Tuần chính là ngày của Chúa như đã được tiên báo trong Kinh Thánh. Những sự lạ thường xảy ra trong ngày đó đã thể hiện quyền ủy và sự tôn cao của Chúa Phục Sinh của họ mà từ đây họ sẽ tôn thờ như một Chúa sống đời đời.
Kinh nghiệm đưọc ban cho Đức Thánh Linh cho họ một cảm xúc mạnh mẽ tưởng như thần linh của Đức Chúa Trời vốn ở trong họ nay đã thức tỉnh. Đó là một thần linh họ chưa hề nghĩ đến một lời giải thích nào theo thần học, nhưng họ biết chắc rằng đó chính là sự ban cho mà Chúa Christ đã từng hứa (GiGa 14:26 ; Cong Cv 2:38, 39).
Trong những ngày kế tiếp, Đức Thánh Linh này đã ở trong họ, tác động lòng những người đàn ông và đàn bà ấy và giúp họ ‘làm hơn điều họ muốn làm, thương yêu hơn lòng họ muốn thương yêu, cầu nguyện hơn tâm thần họ muốn cầu nguyện’.
Được Đức Thánh Linh cảm động, Phi-e-rơ trước hết kêu gọi ‘cả nhà Y-sơ-ra-ên’, giải thích những việc xảy ra trước ngày Lễ Ngũ Tuần bằng những lời tiên tri của Giô-ên (Gio Ge 2:26-28) và xác định là Chúa Giê-xu đã thật Phục Sinh. Phi-e-rơ nhấn mạnh cao điểm của lời giảng : ‘Vậy cả nhà Y-sơ-ra-ên khá biết chắn rằng Giê-xu mà các ngươi đã đóng đinh trên thập tự giá, Đức Chúa Trời đã tôn cao Ngài làm Chúa và Đấng Christ’ (Cong Cv 2:36)
Lời nói của Phi-e-rơ đâm thấu tim những người nghe nên họ hỏi ‘vậy chúng tôi phải làm chi?’ Cả đám dân xôn xao kích động, những dấu kỳ phép lạ tiếp tục xảy ra; hàng trăm người đưọc làm phép Báp Têm trong danh Chúa Giê-xu Christ, và nhiều người khác, kể cả những thầy tế lễ, đã nhận Chúa Giê-xu chính là Đấng Mê-si-a. Vào thời kỳ phôi thai thuở đó, phong trào này quả thật là một sự phục hồi sinh động của Do Thái Giáo, một cuộc phấn hưng với tất cả lòng sùng kính, tin cậy, lòng biết ơn đối với Đức Chúa Trời. Người ta bắt đầu nhận ra rằng trong sứ mạng của Chúa Christ, trong đời sống, sự chết và Phục Sinh của Ngài quả thật Đức Chúa Trời đã mở rộng một đường mới cho mọi người đến với Ngài.
Những kẻ tin Chúa hằng sống vẫn còn trung tín với luật pháp Do Thái cũ, và họ vẫn đến đền thờ cầu nguyện vào những giờ đã định, vì họ tin rằng niềm tin của họ không phải là niềm tin mới nhưng là sự thực hiện niềm tin cũ cách đầy đủ hơn. Tuy nhiên, những người theo phái Sa-đu-sê hoảng sợ khi thấy dân chúng quá sốt sắng tiếp nhận sứ điệp mới, và họ đã cấm các Sứ Đồ nhân danh Đấng Christ rao giảng sứ mạng mới. Phi-e-rơ và Giăng bị bắt giam hai lần. Hai người bị đánh đập, bị điệu ra trước tòa công luận, ở đó có luật sư (Rabbi) Ga-ma-li-ên bênh vực cho họ (Cong Cv 5:34), cảnh giác các đồng sự bằng những lời sau này trở thành những lời tiên tri: ‘Nếu mưu luận và công cuộc này ra bởi người ta, thì sẽ tự hư đi, nhưng nếu bởi Đức Chúa Trời ra thì các người phá diệt các người đó chẳng nổi, và lại là liều mình chống nghịch cùng Đức Chúa Trời’ (5:39).
Mặc dù sự ngăn chặn của nhà cầm quyền, Cơ-Đốc Giáo tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Những kẻ theo phong trào dốc lòng giữ lời dạy của các Sứ Đồ, sự thông công giữa anh em, lễ bẻ bánh và sự cầu nguyện.…và hết thảy những kẻ tin đều hiệp lại với nhau, lấy mọi vật làm của chung. Họ bán gia tài điền sản mình mà phân phát cho nhau, tùy sự cần dùng của từng người. (2:42, 44, 45). Các Sứ Đồ được công nhận làm lãnh đạo, khéo gây dựng mối thông công mạnh mẽ trong phong trào đến nỗi những ai thiếu thốn đều được giúp đỡ và những kẻ tin đều ‘một lòng một ý cùng nhau; ‘(4:32). Trong bầu không khí hiệp một này, các Sứ Đồ dạy rằng Đấng Christ là sự thực hiện đầy trọn những gì đã tiên báo trong Kinh Thánh. Họ cùng nhau chia xẻ những gì họ nhớ lại về những lời Ngài đã phán, những việc Ngài đã làm, cứ nhắc đi nhắc lại như thế cho đến khi cô đọng thành các câu chuyện văn chương linh hoạt mà sau này các sách Phúc Am đã thâu thập làm nền tảng.
Thêmvào sự dạy dỗ và thông công, lại còn những buổi thờ phượng hàng ngày chung với những thân hữu Do Thái trong đền thờ, đồng thời có cả những buổi nhóm riêng tại nhà các tín hữu. Tại đây ‘lễ bẻ bánh’ trở thành bữa ăn chung để cùng ghi nhớ bữa ăn tối họ dự lần chót cùng Chúa. Trong những buổi nhóm họp này, họ đọc những đoạn Kinh Thánh Cựu Ước và giảng theo lề lối như Chúa Giê-xu đã thực hành trong các nhà hội. Tuy nhiên kể từ nay, những lời giảng này được soi sáng bởi những điều Ngài dạy dỗ và sự Phục Sinh của Ngài.