Và rồi Martin kể cho bà ấy nghe giấc mơ của ông, và việc ông nghe tiếng Chúa hứa sẽ thăm viếng ông vào ngày hôm nay.

“Ai biết được điều đó? Điều gì cũng có thể xẩy ra.,” người đàn bà đáp lời. Và rồi bà đứng dậy, lấy cái áo khoát choàng trên vai, quấn nó chung quanh người bà và xung quang đứa con nhỏ. Rồi bà khôm xuống, cám ơn Martin một lần nữa. “Hãy cầm cái nầy vì lòng tốt của Chúa,” Martin nói, và trao cho bà ta sáu đồng xu để bà chuộc lại cái khăn choàng mà bà đã cầm. Người đàn bà làm dấu thập tự, và Martin cũng làm như vậy, sau đó ông tiễn bà đi.
Khi bà ấy đi rồi, Martin ăn một chút súp bắp cải, dọn dẹp đồ đạc xong, và ngồi xuống tiếp tục làm việc. Ông ngồi đó làm việc, nhưng vẫn không quên nhìn ra cửa sổ, và mỗi khi có bóng dáng ai đi qua lập tức ông nhìn xem đó là ai. Có người ông biết và có người lạ đi ngang qua, nhưng không có ai đáng để ý. Sau đó một lúc khá lâu Martin thấy một bà bán táo dừng lại trước cửa sổ của ông khá lâu. Bà mang một giỏ lớn, nhưng dường như không còn bao nhiêu trong giỏ; có lẽ bà ta đã bán hầu hết đồ trong giỏ. Đàng sau lưng bà có mang một cái túi đựng đầy cũi vụn để bà đem về nhà. Rõ ràng là bà đã lượm được ở một dinh thự đang được cất lên. Cái túi ấy có vẻ làm bà khó chịu, nên bà muốn chuyển nó từ vai này sang vai kia, vì vậy bà đặt nó xuống trên con đường đi, và để cái giỏ gần một cái cột, bà bắt đầu lắc lắc cái túi đầy những cũi vụn. Khi bà đang làm như vậy một cậu trai đội một cái nón rách chạy ngang qua, vồ lấy một trái táo từ trong giỏ, rồi cố bỏ chạy; nhưng bà già nhìn thấy, và quay lại, nắm được cánh tay áo cậu bé. Cậu ta cố gắng vùng vẫy để thoát ra, nhưng bà già dung hai cánh tay giữ được cậu ta lại, hất cái nón của cậu ta ra khỏi đầu, rồi nắm tóc cậu ta. Cậu bé la hét oai oái còn bà già cứ mắng nhiếc cậu ta. Martin để cái dùi xuống, không chờ cái vết may đặt đúng chỗ, vội chạy nhanh ra phía cái cửa. Trượt chân ở mấy bậc thềm, và vì vội vã ông làm rớt cặp mắt kính, ông chạy nhanh ra ngoài đường. Bà già vẫn còn nắm tóc của cậu bé và la hét nó, rồi đe dọa dẫn nó đến cảnh sát. Cậu bé cố vùng vẫy và cố chối, “Tôi không có lấy nó. Tại sao bà đánh tôi? Bỏ tôi ra!” Martin cố tách hai người ra. Ông cầm lấy tay cậu bé rồi nói, “Bỏ nó ra, bà già ơi. Tha thứ cho nó đi vì danh Chúa.” “Tôi sẽ trả tiền cho nó, để nó không quên chuyện này trong một năm! Tôi sẽ đem thằng nhãi con này đến cảnh sát!” Martin bắt đầu khẫn nài bà già. “Bỏ nó ra, bà già ơi. Nó không làm như vậy nữa. Cho nó đi vì danh Chúa!” Bà già bỏ đứa con trai ra, và cậu bé muốn chạy đi, nhưng Martin cãn nó lại. “Hãy xin lỗi bà già đi!” ông nói, “Và đừng làm như vậy nữa. Tao thấy mầy lấy trái táo.” Cậu bé bắt đầu khóc và van xin. “Tốt lắm. Và đây là trái táo cho mầy,” Martin lấy một trái táo tronng giỏ đưa cho nó, rồi nói, “Tôi sẽ trả tiền cho bà.” “Ông chỉ làm nó hư đi, đồ thứ nhãi con này,” bà già nói. “Nó đáng bị đánh cho một trận để nó nhớ ít nhất một tuần.” “Ồ, bà ơi, bà ơi,” Martin lên tiếng nài nĩ, “đó là cách của con người chúng ta? Nhưng không phải là cách của Chúa. Nếu ngài đánh vì ăn cắp một trái táo, ngài sẽ làm gì khi chúng ta phạm tội?” Bà già tỏ vẻ yên lặng. Rồi Martin kể cho bà nghe ví dụ của Chúa tha thứ cho một người đầy tớ mắc một món nợ lớn, và cái cách người được tha tội tìm người khác mắc nợ mình để nắm cổ. Bà già chăm chúa lắng nghe, cậu bé cũng đứng đó lắng nghe. “Chúa ngăn cản chúng ta,” Martin nói, “nếu không chúng ta không được tha thứ. Hãy tha thứ cho mọi người, nhất là cái cậu ranh mảnh này.” Bà già gật đầu rồi thở dài. “”Thật đúng như vậy,” bà nói, “nhưng chúng càng tệ hơn.” “Vậy thì người lớn phải chỉ cho chúng cách nào tốt đẹp hơn,” Martin trả lời. “Đó là điều tôi muốn nói,” bà già đáp lời. “Tôi có bảy đứa con, bây giờ chỉ còn lại một đứa con gái ở nhà.” Rồi bà bắt đầu kể cách sống của gia đình bà như thế nào và đang sống ở đâu với đứa con gái, và bao nhiêu đứa cháu bà có. “Bây giờ,” bà nói tiếp, “Tôi chỉ lại chút sức khỏe, nhưng tôi cố làm việc vì các cháu của tôi; chúng nó thật ngoan làm sao. Không có ai đến thăm tôi ngoại trừ các con cháu của tôi. Đứa con bé của tôi, con Anne đó, không chịu đi theo ai hết chỉ muốn ở với tôi? Ôi thôi, tụi nó gọi tôi bà, bà yêu thương, bà thân thương.” Và rồi bà nguôi đi quên hết cơn giận lúc nẫy. “Dĩ nhiên, nó chỉ hành động trẻ con, Chúa chỉ dạy cho nó,” bà nói về cậu bé trai. Lúc đó bà định mang cái túi ra đằng sau lưng, cậu bé tiến nhanh về phía bà ta, rồi nói, “Để tôi mang cái túi đó cho bà. Tôi đi về hướng đó.” Bà già gật đầu, và đặt cái túi ra đằng sau lưng cậu bé, và họ cùng nhau tiến về phía con đường trước mặt, bà già quên lững việc đòi tiền Martin về mấy trái táo. Martin đứng đó và ngắm nhìn hai người đó đang nói chuyện với nhau. Khi họ đi mất hút, Martin đi vào trong nhà. Ông tìm được cặp mắt king rớt trên bậc thềm không có hư hại gì hết, ông lụm cái dũa lên và ngồi xuống làm việc tiếp tục. Ông làm việc một chút xíu, nhưng chẳng bao lâu ông không còn thấy được sợi nhợ xõ xuyên qua miếng da giầy; và ngay lúc đó ông nhận thấy người thắp đèn đang đốt các đèn ngoài đường. “Đã tới giờ thắp đèn lên rồi,” ông ta ngẫm nghĩ. Vì vậy ông thắp cái đèn, treo nó lên, và ngồi xuống làm việc tiếp tục. Ông làm xong một chiếc giầy, quay nó đi qua đi lại ngược xuôi, khám xét nó thật kỹ. Tốt rồi. Rồi ông thu xếp hết dụng cụ lại, quét hết mấy mảnh da cắt, đem dẹp cây chỏi và cuộn chỉ cùng mấy cái mủi dùi, sau đó, ông lấy cái đèn xuống, để nó trên bàn. Rồi ông lấy cuốn Kinh Thánh từ trên kệ xuống. Ông muốn mỡ ra ở ngay cái chỗ ông đánh dấu ngày hôm trước, nhưng cuốn sách được mỡ ra ở chỗ khác. Khi Martin mỡ Kinh Thánh ra, giấc mơ tối hôm qua trở lại chiếm lấy tâm trí ông, và chẳng bao lâu ông càng nghĩ về nó ông hình như nghe tiếng chân ai đó, có lẽ họ đang tiến về phía đằng sau ông. Martin quay lại, và dường như có ai đang đứng trong bóng tối, nhưng ông không rõ đó là ai. Rồi một tiếng thì thầm vào lỗ tai của ông: “Martin, Martin, ông có biết tôi không?” “Ai đó?” Martin lẫm bẫm. “Tôi đây,” có một tiếng trả lời. Và trong bóng đêm tiếng ra Stepánitch, đang cười và biến mất đi như một cụm mây không còn thấy được. “Tôi đây,” có tiếng ai đó trả lời một lần nữa. Và trong bóng đêm bước ra người đàn bà với đứa con trên tay, và người đàn bà mĩm cười còn đứa bé thì cười thủng thỉnh, rồi họ cũng biến mất đi. “Tôi đây,” có ai lên tiếng một lần nữa. Rồi bà già và cậu bé với trái táo bước ra và cả hai mĩm cười, rồi họ cũng biến mất đi. Rồi tâm hồn Martin nỗi lên niềm vui mừng. Ông làm dấu thập tự mang cặp mắt kính lên, và bắt đầu đọc Kinh Thánh nơi ông đã mỡ ra; trên hàng đầu nhất ông đọc “Ta đói, ngươi cho ta ăn; Ta khát, ngươi cho ta uống; Ta là người khách lạ, ngươi tiếp rước ta.” Và hàng cuối của trang đó ông đọc: “Hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy.” Bây giờ Martin hiểu được giấc mơ của ông đã trở thành sự thật; và chính Cứu Chúa đã thật đến với ông ngày hôm nay, và ông đã tiếp đón Ngài.
“Where is Love, God is” Leo Tolstoy Anh Châu chuyển ngữ

Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về [email protected]

www.nguonhyvong.com