Viết bởi Tiến-sĩ Martin Luther ngày 31 tháng 10 năm 1517
Bản dịch viết bởi Tường Hân
ngày 07082003 tại Surrey, British Columbia
Canada
Những luận-đề dự-thảo sau đây sẽ được thảo-luận tại thành-phố Wittenberg dưới sự chủ-tọa của Linh-mục Martin Luther, Cao-học Văn-chương, và Tiến -sĩ Thần-học Bí -tích Sacred Theology, là Giảng-sư thực-thụ của cùng môn học tại bản trường, được thúc-đẩy bởi lòng yêu-chuộng cùng sự ước-mong được trình-bày lẽ thật ra ánh-sáng. Bởi vì cớ ấy, ông xin yêu-cầu những vị nào không thể đến tham-dự và tranh-luận bằng lời với chúng tôi thì có thể dùng bài viết.

1. Khi Chúa Giê-xu Christ và là Chúa của chúng ta nói rằng “ Poenitentiam agite “ tức : Các ngươi hãy ăn-năn , thì Ngài muốn rằng suốt cả cuộc đời của người tin Chúa là một sự ăn-năn.
2. Từ-ngữ này không thể được hiểu như là nghi-thức (bí-tích) giải-tội của Công-giáo, tức là sự xưng-tội và đọc kinh giải-tội như cách mà các linh-mục đã làm.
3. Dầu vậy, từ-ngữ này không phải chỉ nói về sự ăn-năn bên trong không thôi: không đâu, không có một sự ăn-năn bên trong nào mà lại không góp phần vào sự làm chết đi những gì của xác-thịt.
4. Thế nên, hình-phạt [của tội-lỗi] vẫn còn tiếp-tục nếu sự ghét-bỏ chính mình vẫn còn tiếp tục; bởi vì đây mới chính thực là sự ăn-năn bên trong, và sự ăn-năn bên trong sẽ còn tiếp-tục cho đến khi chúng ta bước vào thiên-đàng.
5. Vị Giáo-hoàng không hề có ý-định xóa bỏ, và cũng không đủ sức xóa bỏ bất-kỳ một hình-phạt nào, ngoại-trừ những hình-phạt mà ông đã áp-đặt, hoặc bằng chính thẩm-quyền của mình, hoặc bằng thẩm-quyền của Giáo-luật.
6. Vị Giáo-hoàng không thể xóa được bất-kỳ một tội nào, trừ phi bằng cách công-bố rằng tội ấy đã được Đức Chúa Trời xóa bỏ, và bằng cách chấp-nhận sự tha-tội của Đức Chúa Trời; dầu vậy, để cho được chắc-chắn, vị Giáo-hoàng có thể ban sự tha-tội trong những vụ nào đã được để riêng ra chờ sự phán-quyết của ông. Nếu quyền ban cho sự tha-tội của ông trong những vụ ấy bị khinh-thường, thì tội ấy vẫn hoàn-toàn chưa được tha.
7. Đức Chúa Trời không tha tội cho bất-kỳ người nào mà Ngài không đồng-thời bắt-phục họ trở nên khiêm-nhường trong mọi mặt, và khiến người phải chịu thuận-phục vị cha xứ của Ngài, tức vị linh-mục sở-tại.
8. Những giáo-luật về sự ăn-năn chỉ được áp-đặt trên người còn sống, và theo như những giáo-luật ấy, chúng ta không nên áp-đặt một điều gì trên người sắp chết.
9. Thế nên, Đức Thánh-Linh ngự trong vị Giáo-hoàng tỏ ra rất nhân-từ với chúng ta, bởi vì trong những đạo-luật của ông , ông luôn xem những điều-khoản nói về sự chết và về nhu-cầu là những trường-hợp ngoại-lệ.
10. Trong trường-hợp những người sắp chết, mà những linh-mục nào lại để dành cách giải-tội theo như giáo-điều cho đến khi những người này vào “ngục luyện-tội” , thì đó là những việc làm vô-tâm và độc-ác.
11. Việc đổi hình-phạt theo giáo-luật thành hình-phạt của ngục luyện-tội rõ-ràng là một trong những giống cỏ lùng đã được gieo ra trong lúc các vị giám-mục đang ngủ.
12. Trong thời-gian trước đây, những hình-phạt theo giáo-luật được áp-đặt trước khi, chứ không phải được áp-đặt sau khi đã được tha tội, như là những sự chứng-nghiệm về sự ăn-năn thật.
13. Người sắp chết được miễn tất-cả mọi hình-phạt khi họ qua đời; vì họ xem như đã chết rồi đối với những giáo-luật, và có quyền được giải-thoát khỏi những giáo-luật đó.
14. Sự lành-mạnh không toàn-hảo [của linh-hồn] , tức chúng tôi muốn nói rằng, tình-yêu không toàn-hảo của người sắp chết mang đến sự sợ-hãi lớn không thể tránh được; nếu tình-yêu đó càng ít , thì sự sợ-hãi càng lớn.
15. Sự sợ-hãi này cùng sự kinh-khiếp tự chúng đã đủ để tạo thành hình-phạt của ngục luyện-tội, bởi vì điều ấy rất gần với sự kinh-khiếp của tuyệt-vọng.
16. Địa-ngục, ngục luyện-tội, và thiên-đàng có vẻ như khác-biệt nhau một cách tương-tự như sự khác-biệt giữa tuyệt-vọng, gần tuyệt-vọng, và sự bảo-đảm an-toàn.
17. Đối với những linh-hồn ở trong ngục luyện-tội thì điều cần có là sự kinh-khiếp nên giảm đi và tình yêu-thương phải tăng lên.
18. Chúng ta thấy điều có vẻ như không chứng-minh được, dù bằng lý-luận hay bằng Kinh thánh, là những linh-hồn ấy ở ngoài tình-trạng được thưởng, chúng tôi muốn nói là, tình-trạng tình yêu-thương được tăng thêm. 19. Còn nữa, điều chúng ta thấy có vẻ như không chứng-minh được là họ, hay ít ra là tất-cả những linh-hồn ấy lại tỏ ra chắc-chắn, hoặc được cho biết chắc về tình-trạng được phước của chính họ, mặc-dù chúng ta biết khá chắc-chắn về việc này.
20. Thế nên, khi nói rằng “ xóa-bỏ hoàn-toàn mọi hình-phạt “ , thì vị Giáo-hoàng không thực-sự có ý nói là “ mọi hình-phạt “ nhưng chỉ nói những hình-phạt nào mà chính ông đã áp-đặt.
21. Thế nên, những người nào giảng về bùa giải-tội đều là sai, tức những người nào nói rằng qua bùa giải-tội của vị Giáo-hoàng thì một người sẽ được giải-thoát khỏi mọi hình-phạt, và linh-hồn sẽ được cứu;
22. Trong khi đó vị Giáo-hoàng lại không xóa một hình-phạt nào cho những linh-hồn ở trong ngục luyện-tội, mà đáng lý ra theo giáo-luật, họ đã phải trả trước rồi trong đời này.
23. Nếu bằng mọi cách nào có thể được để ban sự xóa sạch mọi hình-phạt cho bất-kỳ ai dù tội ấy có như thế nào đi chăng nữa, thì điều chúng ta biết chắc rằng sự xóa-tội này chỉ có thể ban được cho những ai toàn-hảo nhất, tức là , chỉ cho một số người ít nhất.
24. Thế nên, điều ắt có và phải có là phần lớn người ta đã bị đánh lừa bởi lời hứa lầm-lẫn về sự giải-thoát khỏi hình-phạt nghe rất kêu này.
25. Nói một cách tổng-quát, thẩm-quyền mà vị Giáo-hoàng có được trên ngục luyện-tội, là chỉ giống như thẩm-quyền mà bất-kỳ một vị giám-mục, hay một vị cha xứ có trong vòng địa-phận, hay giáo-xứ của họ, trong trường-hợp riêng-biệt này.
26. Vị Giáo-hoàng làm một điều phải, khi người ban phát sự xóa-tội cho những linh-hồn [ở trong ngục luyện-tội], không bởi quyền-năng của chìa khóa ngục ( mà chính người không có giữ ) , nhưng bởi sự cầu thay.
27. Người ta đã giảng-dậy rằng ngay khi những đồng tiền rơi leng-keng vào trong hộp tiền dâng, thì các linh-hồn sẽ bay ra khỏi [ngục luyện-tội]
28. Điều chắc-chắn là khi các đồng tiền rơi leng-keng vào trong hộp tiền dâng, thì vật-chất và lòng tham vật-chất có thể tăng lên, nhưng kết-quả sự cầu-thay của Hội-thánh nằm trong quyền-năng của chỉ riêng Đức Chúa Trời mà thôi.
29. Nào ai biết được rằng có phải mọi linh-hồn trong ngục luyện-tội đều muốn được chuộc ra khỏi nơi đó hay không, như trong huyền-thoại của thánh-đồ Severinus và thánh-đồ Paschal.
30. Không một ai biết được chắc-chắn rằng sự ăn-năn của chính họ là thành-thật hay không, đừng nói chi đến việc họ có nhậ n được sự xoá-tội hoàn-toàn hay không.
31. Người thực-sự ăn-năn tội-lỗi đã thật hiếm rồi, mà người thực-sự tin vào bùa giải-tội cũng hiếm tương-tự; nghĩa là những người như vậy cực-kỳ hiếm có.
32. Họ sẽ bị rủa-sả đời-đời cùng với các thầy giáo của họ, là những người tin rằng chính họ cảm thấy chắc-chắn về sự cứu-rỗi của mình bởi vì họ có thư ân-xá.
33. Quý-vị phải cảnh-giác về những người nào nói rằng sự ân-xá của vị Giáo-hoàng là quà tặng của Đức Chúa Trời lớn không tưởng được mà nhờ đó con người được hòa-thuận lại với Đức Chúa Trời;
34. Bởi vì những “ ân-điển của sự ân-xá ” này chỉ quan-tâm đến những hình-phạt về sự chuộc-tội theo giáo-điều, và những điều này do con người định ra.
35. Họ giảng rằng không một giáo-lý Cơ-đốc nào dạy-dỗ rằng không cần-thiết phải có sự ăn-năn cho những người nào định mua linh-hồn ra khỏi ngục luyện-tội , hoặc định mua lời xưng-tội.
36. Mọi Cơ-đốc-nhân nào mà thực-sự ăn-năn đều có quyền được tha các hình-phạt và xóa-tội hoàn-toàn, ngay cả khi họ không có thư ân-xá.
37. Mọi Cơ-đốc-nhân thật, dù còn sống hay đã chết, đều được dự-phần trong mọi ơn-phước của Chúa Giê-xu Christ và của Hội-thánh; và điều này được chính Đức Chúa Trời ban cho, ngay cả khi họ không có thư ân-xá.
38. Tuy-nhiên, sự xóa-tội và dự-phần [vào ơn-phước của Hội-thánh] nào mà đã được vị Giáo-hoàng ban cho thì không ai có quyền khinh-rẻ, bởi vì như tôi đã nói, chúng là sự công-bố của sự tha-tội thiên-thượng.
39. Thật là một điều khó-khăn nhất, cho ngay cả những nhà thần-học sắc-bén nhất, là trong một lần, và cùng một lúc, tuyên-dương với dân-chúng sự dư-dật của ân-xá và [sự cần-thiết ] phải có của ăn-năn thật.
40. Sự ăn-năn thật tìm-kiếm và yêu-mến hình-phạt, nhưng sự ân-xá không nghiêm-chỉnh chỉ làm nhẹ đi hình-phạt, và khiến chúng trở nên bị ghét bỏ, hay ít ra, tạo cơ-hội cho việc ấy [để ghét bỏ chúng].
41. Sự ân-xá bởi các thánh-đồ cần được giảng-dạy một cách dè-dặt, vì sợ rằng dân-chúng có thể nghĩ một cách sai-lầm rằng điều này tốt hơn là những việc lành khác của tình yêu-thương.
42. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng vị Giáo-hoàng không có ý-định rằng người ta đem so-sánh dưới bất-cứ hình-thức nào việc mua sự ân-xá với việc làm do lòng thương-xót.
43. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng ai giúp-đỡ kẻ nghèo-khó, hay cho người đang cần-dùng vay mượn thì làm việc lành tốt hơn là mua giấy ân-xá;
44. Bởi vì tình yêu-thương được sanh ra bởi những việc làm của tình yêu-thương, và con người nhờ đó sẽ trở nên tốt hơn; nhưng con người không trở nên tốt hơn bởi giấy ân-xá, mà chỉ được tự-do khỏi sự hình-phạt hơn .
45. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng ai thấy người khác đang có nhu-cầu nhưng bỏ tránh xa và dùng [tiền của mình] mua sự ân-xá, thì người ấy không phải mua được bùa giải-tội của vị Giáo-hoàng, nhưng mua lấy sự thạnh-nộ của Đức Chúa Trời.
46. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng trừ phi họ có nhiều hơn những gì họ cần, họ bắt-buộc phải giữ lại những gì cần-thiết cho chính gia-đình họ, và không được dùng phung-phí cho giấy ân-xá dưới bất-cứ hình-thức nào.
47. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng việc mua giấy ân-xá là vấn-đề tự-ý, không phải là điều răn.
48. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng khi ban cho sự ân-xá, vị Giáo-hoàng cần, và do đó, ông cũng mong-mỏi những lời cầu-nguyện khẩn-thiết của họ dành cho ông hơn là những món tiền các Cơ-đốc-nhân này đem đến.
49. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng những sự ân-xá của vị Giáo-hoàng là có ích, nếu họ không đặt niềm tin vào chúng, nhưng chúng hoàn-toàn là có hại, nếu bởi vì cớ chúng mà họ mất đi lòng kính-sợ Đức Chúa Trời. 50. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng nếu vị Giáo-hoàng biết được những thủ-đoạn vòi tiền của những người giảng-dạy về sự ân-xá, thì người sẽ ước thà rằng ngôi vương-cung thánh-đường St. Peter bị thiêu-huỷ thành tro bụi còn hơn là để ngôi nhà này được dựng nên bằng da thịt, máu xương của bầy chiên người.
51. Cơ-đốc-nhân cần được dạy-dỗ rằng điều mà vị Giáo-hoàng ước-muốn , và đồng thời cũng chính là bổn-phận của người, là phải đem tiền của chính mình đi cho rất nhiều người khác mà trước đây đã bị những kẻ rao bán sự ân-xá dụ-dỗ tiền-bạc, cho dù người phải bán đi ngôi vương-cung thánh-đường St. Peter để làm việc ấy.
52. Sự bảo-đảm cứu-rỗi nhờ thư ân-xá là vô-ích, ngay cả khi người được ủy-nhiệm, không đâu, ngay cả khi chính vị Giáo-hoàng đặt linh-hồn của người lên để bảo-đảm.
53. Những kẻ nào mà bưng-bít lời Chúa để hoàn-toàn không được rao-giảng tại một số Hội-thánh hầu cho sự ân-xá được rao giảng ở những chỗ khác, thì ấy là kẻ thù của Đấng Christ và của vị Giáo-hoàng.
54. Khi trong cùng một bài giảng mà người ta dùng thời-gian bằng hay nhiều hơn để giảng về sự ân-xá so với thời-gian giảng lời Chúa, thì điều này làm thương-tổn đến Lời của Đức Chúa Trời.
55. Ý-định của vị Giáo-hoàng bắt-buộc phải là, nếu sự ân-xá, vốn là một việc rất nhỏ, được đón mừng bằng một tiếng chuông cùng một lần diễn-hành và nghi-lễ, thì Phúc-âm của Chúa, chính là một điều thật vĩ-đại, phải được rao-giảng với một trăm hồi chuông, một trăm lần diễn-hành và một trăm lần nghi-lễ.
56. Những “ bảo-vật của Hội-thánh ” mà vị Giáo-hoàng đã dùng để ban phát bùa giải-tội, đã không được nêu tên đúng mức và cũng không được biết đến trong vòng dân-sự của Đức Chúa Trời.
57. Rằng chúng không phải là bảo-vật tạm-thời là điều rõ-ràng lắm, bởi vì rất nhiều kẻ bán rao đã không ban những bảo-vật này ra một cách dễ-dàng đâu, nhưng chỉ thâu-lượm chúng mà thôi.
58. Và chúng cũng không là những công-đức của Đấng Christ và của các Thánh, bởi vì ngay cả khi không có vị Giáo-hoàng, thì những điều này trở nên ân-điển cho con người bề trong, và là thập-tự-giá, sự chết, và địa-ngục cho con người bề ngoài.
59. Thánh Lawrence nói rằng những bảo-vật của Hội-thánh là những kẻ nghèo-khó của Hội-thánh, nhưng người nói vậy là theo như cách dùng ngôn-từ của thời người đang sống.
60. Chúng tôi có thể nói một cách không cẩu-thả rằng chìa khóa của Hội-thánh, mà đã được ban-cho bởi công-đức của Đấng Christ, chính là bảo-vật ấy;
61. Bởi vì điều chúng ta thấy rõ là để có thể xóa-bỏ những hình-phạt và những trường-hợp được dành riêng cho người, thì thẩm-quyền của vị Giáo-hoàng tự nó đã là đủ.
62. Bảo-vật thật của Hội-thánh là Phúc-âm chí-thánh của sự vinh-hiển và ân-điển của Đức Chúa Trời.
63. Nhưng bảo-vật này lẽ tự-nhiên là đáng ghét nhất, vì nó khiến kẻ đầu trở nên kẻ sau rốt.
64. Mặt khác, bảo-vật bùa giải-tội thì lẽ tự-nhiên là dễ chấp-nhận nhất, vì nó khiến kẻ sau rốt trở nên kẻ đầu.
65. Thế nên, những bảo-vật của Phúc-âm là những cái lưới mà trước đây họ quen dùng để đánh lưới những con người của sự giàu-có.
66. Còn bảo-vật của bùa giải-tội là những cái lưới mà bây giờ họ dùng để đánh lưới những sự giàu-có của con người.
67. Những bùa giải-tội mà các thầy giảng kêu lên rằng ấy là “những ân-điển vĩ-đại nhất”, thì đã được người ta biết quả là có như vậy, nếu chỉ nói đến việc chúng góp phần vào sự gia-tăng lợi-lộc.
68. Nhưng thực ra chúng là những ân-điển nhỏ nhất so với ân-điển của Đức Chúa Trời và sự đạo-đức của Thập-tự-giá.
69. Các giám-mục và cha xứ bắt-buộc phải công-nhận sự uỷ-nhiệm của ân-xá bởi sứ-đồ bằng tất-cả lòng tôn-kính.
70. Nhưng họ còn bị bắt-buộc nhiều hơn thế nữa, là họ phải mở mắt to để nhìn cho rõ, lắng tai nghe thật chăm-chú, vì e rằng những thầy giảng này rao-giảng những giấc mơ riêng của họ thay vì rao giảng những gì theo sự uỷ-nhiệm của vị Giáo-hoàng.
71. Người nào mà nói nghịch lại lẽ thật về sự ân-xá bởi sứ-đồ, nguyện cho hắn bị tuyệt-thông (a-na-them) và bị rủa-sả !
72. Nhưng người nào chống-trả lại dục-vọng và sự cấp phép cho các thầy giảng bùa ân-xá, thì nguyện người ấy được hưởng phước!
73. Vị giáo-hoàng đã làm việc công-chính khi người cảnh-cáo những kẻ đã dùng mọi xảo-thuật để mưu-định sự thương-tổn của việc mua bán thư ân-xá.
74. Nhưng người còn định cảnh-cáo nhiều hơn thế nữa những kẻ nào dùng chiêu-bài ân-xá để mưu-định sự thương-tổn của tình yêu-thương và lẽ thật thánh-thiện.
75. Nếu ai nghĩ rằng sự ân-xá của vị Giáo-hoàng là vĩ-đại đến độ chúng có thể xóa sạch tội cho một người ngay cả khi người ấy đã phạm một tội lớn không tưởng được và đã xâm-phạm đến người mẹ của Đức Chúa Con – thì đấy là sự điên-cuồng.
76. Trái lại, chúng tôi nói rằng, sự ân-xá của vị Giáo-hoàng không đủ sức để xóa đi những tội dù nhỏ nhất của những tội loại không đáng chết.
77. Người ta còn nói rằng, ngay cả thánh Phi-e-rơ (Phê-rô) nếu bây giờ là vị Giáo-hoàng, cũng không thể ban cho ân-điển lớn hơn được; đây là lời phạm-thượng đối với thánh Phi-e-rơ (Phê-rô) và đối với vị Giáo-hoàng.
78. Trái lại, chúng tôi nói rằng, ngay cả vị Giáo-hoàng hiện-tại, hay bất-kỳ một vị Giáo-hoàng nào nói chung, đều có sẵn những ân-điển lớn hơn để người tuỳ-tiện xử-dụng; tức là Phúc-âm, quyền-năng, ơn-tứ chữa bệnh, vân vân… như đã được chép trong 1 Cô-rinh-tô 12.
79. Nếu người ta nói rằng thập-tự-giá, khi được chạm-trổ cầu-kỳ bằng huy-hiệu của vị Giáo-hoàng , vốn là sự xếp-đặt [bởi những kẻ rao-giảng về thư ân-xá], thì có giá-trị ngang với Thập-tự-giá của Đấng Christ, thì ấy là tội phạm-thượng.
80. Các vị giám-mục, linh-mục và các vị giáo-sư thần-học nào mà cho phép những câu chuyện như vậy lan-truyền trong vòng dân-sự thì sẽ có một món nợ phải trả.
81. Sự giảng-dạy không hạn-chế về thư ân-xá này khiến cho sự việc trở nên không dễ-dàng, cho ngay cả những người giầu kiến-thức, để có thể cứu-vãn sự tôn-kính mà vị Giáo-hoàng đáng được hưởng khỏi bị hoen-ố, kể cả việc cứu-vãn khỏi những câu hỏi tinh-tế của hàng giáo-dân.
82. Tức họ nói rằng :” Tại sao vị Giáo-hoàng lại không đại-phóng-thích ngục luyện-tội vì cớ tình yêu-thương, và vì nhu-cầu cấp-bách của những linh-hồn hiện đang ở đó, mà lại cứu vô-số kể những linh-hồn để được những món tiền đáng thương, rồi dùng tiền đó để xây thánh-đường ? Những lý-do đầu thật công-bình, còn những lý-do sau

Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về [email protected]

 

www.nguonhyvong.com